Văn chương Văn Thiên Tường

Văn Thiên Tường (文 天 祥) còn là một nhà thơ, nhà văn. Văn chương ông có lời lẽ khẳng khái, hào hùng của kẻ sĩ trong thời nước nhà lâm nạn. Khí tiết của Văn Thiên Tường ảnh hưởng rất nhiều đến sĩ phu đời sau. Hai câu thơ:

• 人生自古誰無死• 留取丹心照汗青• Nhân sinh tự cổ thùy vô tử• Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh- Xưa nay có ai mà không chết- Hãy để lòng son chiếu sử xanh

Đã được Nguyễn Công Trứ dùng trong bài hát nói "Chí khí Anh hùng" nổi tiếng của mình:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọcNợ tang bồng vay trả, trả vayChí làm trai nam bắc đông tây,Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bểNhân sinh tự cổ thùy vô tử,Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanhĐã chắc ai rằng nhục rằng vinhMấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộCũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong...

• Bài gốc có câu này của Văn Thiên Tường:

Quá Linh Đinh DươngTân khổ tao phùng khởi nhứt kinh,Can qua liêu lạc tứ châu tinh.Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ,Thân thế phù trầm vũ đả bình.Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng,Linh Đinh dương lý thán linh đinh.Nhân sanh tự cổ thùy vô tử,Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Dịch nghĩa:

Quá Linh Đinh DươngĐèn sách gian lao mộng ước thành,Bốn năm thác loạn cuộc giao tranh.Sơn hà tan tác bông trước gió,Bèo dạt trong mưa cảm phận mình,Hoàng Khủng ghềnh kia chuyện hoàng khủng,Linh Đinh sông nọ nỗi lênh đênh,Xưa nay có ai mà không chết,Hãy để lòng son chiếu sử xanh

Bài Chính khí ca cũng là một tác phẩm hết sức nổi tiếng của ông, được Văn Thiên Tường (文 天 祥) làm khi đang ở trong nhà tù của quân Nguyên.

Chính khí ca - (正 氣 歌)

(Bản gốc chữ Hán và phiên âm Hán-Việt)1. 天 地 有 正 氣Thiên địa hữu chính khí,雜 然 賦 流 形Tạp nhiên phú lưu hình,下 則 為 河 嶽Hạ tắc vi hà nhạc,上 則 為 日 星Thượng tắc vi nhật tinh.5. :於 人 曰 浩 然Ư nhân viết hạo nhiên.沛 乎 塞 蒼 冥Phái hồ tắc thương minh;皇 露 當 清 夷Hoàng lộ đương thanh di,含 和 吐 明 庭Hàm hòa thổ minh đình;時 窮 節 乃 見Thời cùng tiết nãi hiện,10. 一 一 垂 丹 青Nhất nhất thùy đan thanh:在 齊 太 史 簡Tại Tề Thái Sử giản,在 晉 董 狐 筆Tại Tấn Đổng Hồ bút;在 秦 張 良 椎Tại Tần Trương Lương chùy,在 漢 蘇 武 節Tại Hán Tô Vũ tiết.15. 為 嚴 將 軍 頭Vi Nghiêm tướng quân đầu,為 嵇 侍 中 血Vi Kê Thị Trung huyết,為 張 睢 陽 齒Vi Trương Tuy Dương xỉ,為 顏 常 山 舌Vi Nhan Thường Sơn thiệt.或 為 遼 東 帽Hoặc vi Liêu Đông mạo,20. 清 操 厲 冰 雪Thanh tháo lệ băng tuyết,或 為 出 師 表Hoặc vi xuất sư biểu,鬼 神 泣 壯 烈Quỷ thần khấp tráng liệt,或 為 渡 江 楫Hoặc vi độ giang tiếp,慷 慨 吞 胡 羯Khảng khái thôn Hồ Yết.25. 或 為 擊 賊 笏Hoặc vi kích tặc hốt,逆 豎 頭 破 裂Nghịch thụ đầu phá liệt.是 氣 所 磅 礡Thị khí sở bàng bạc,凜 冽 萬 古 存Lẫm liệt vạn cổ tồn當 其 貫 日 月Đương kỳ quán nhật nguyệt,30. 生 死 安 足 論Sinh tử an túc luận.地 維 賴 以 立Địa duy lại dĩ lập,天 柱 賴 以 尊Thiên trụ lại dĩ tôn.三 綱 實 繫 命Tam cương thực hệ mệnh,道 義 為 之 根Đạo nghĩa vi chi căn.35. 嗟 予 遘 陽 九Ta ! Dư cấu dương cửu,隸 也 實 不 力Lệ dã thực bất lực;所 囚 纓 其 冠Sở tù anh kỳ quán.傳 車 送 窮 北Truyền xa tống cùng bắc,鼎 鑊 甘 如 飴Đỉnh hoạch cam như di,40. 求 之 不 可 得Cầu chi bất khả đắc;陰 房 闃 鬼 火Âm phòng khuých quỷ hỏa,春 院 閟 天 黑Xuân viện bí thiên hắc,牛 驥 同 一 皂Ngưu ký đồng nhất tạo,雞 栖 鳳 凰 食Kê thê phụng hoàng thực;45. 一 朝 蒙 霧 露Nhất triêu mông vụ lộ,分 作 溝 中 瘠Phận tác câu trung tích,如 此 再 寒 暑Như thử tái hàn thử,百 沴 自 辟 易Bách lệ tự tịch dịch.哀 哉 沮 洳 場Ai tai ! Tự như trường,50. 為 我 安 樂 國Vi ngã an lạc quốc;豈 有 他 繆 巧Khởi hữu tha mậu xảo,陰 陽 不 能 賊Âm dương bất năng tặc;顧 此 耿 耿 在Cố thử cảnh cảnh tại.仰 視 浮 雲 白Ngưỡng thị phù vân bạch,悠 悠 我 心 憂55. Du du ngã tâm ưu,蒼 天 曷 有 極Thương thiên hạt hữu cực,哲 人 日 已 遠Triết nhân nhật dĩ viễn,典 刑 在 夙 昔Điển hình tại túc tích;風 簷 展 書 讀Phong thiềm triển thư độc,60. 古 道 照 顏 色Cổ đạo chiếu nhan sắc.• Giới thiệu Bản dịch (mấy khổ đầu) của Thái Trọng Lai : [2]DỊCH NGHĨA:1- Trời đất có chính khí ,Pha trộn sẵn, lưu thông thành hình dáng.Dưới thì làm sông, núi,Trên thì làm mặt trời, sao.5- Ở người gọi là khí hạo nhiên,Tràn lấp từ trời xanh đến tận chốn u minh.Ðường làm vua nhằm hồi thanh bình, vừa ý,Nó ngậm lẽ thái hòa ụa vào sân chầu sáng suốt.Lúc cùng khốn khí ấy mới hiện ra ở tiết tháo,10- Mỗi mỗi đều buông rũ vào sử sách.Là thẻ tre quan Thái sử nước Tề ,Là cây bút của Ðổng Hồ nước Tấn.
DỊCH THƠ:1• Trong trời đất có đầy chính khí,• Xen lẫn vào mọi mặt sẵn dòng.• Dưới này là núi, là sông,• Trên kia sao sáng cùng ông mặt trời.5• Là hạo nhiên khi người nhận nó,• Khí ứ tràn nghẽn cả đất trời.• Nước nhà yên ả, thảnh thơi,• Khí hòa vũ trụ trút nơi triều đình.• Khi vận nước ngửa nghiêng, cùng quẫn,10• Khí phả vào, danh rạng sử xanh.• Thẻ Tề, Thái sử nêu danh,• Ðổng Hồ bút Tấn, quyền thần vô phương
Phạm Trọng Cảnh[3] đã viết:Chính Khí Ca của Văn Thiên Tường là một áng văn tuyệt tác ngợi ca lòng yêu nước:"Trong trời đất có cái chính khí, tỏa sáng ra cho tất cả mọi loài hữu hình. Tràn tuôn mặt đất từ sông đến núi và trên trời sáng chói trăng sao. Là khí hạo nhiên của con người. Gặp khi thời thanh bình thịnh trị, từ trong triều đến dân gian đều vang lời vui vẻ, an lạc. Gặp lúc cùng khốn thì tiết tháo can trường tỏ ra, được sử xanh lưu truyền muôn đời. Ở nước Tề thời Chiến Quốc, Thôi Tử giết vua quan Thái Sử chép việc mà không sợ uy quyền. Ở Tấn, quan Tể Tướng Triệu Thuẩn bỏ trốn khi vua bị giết, Đổng Hồ chép sự thật kết án Triệu Thuẩn không làm tròn trách nhiệm là giết vua. Nước Tần, Trương Lương muốn báo thù cho nước Hàn một mình mang chùy đánh vua Tần Thủy Hoàng. Tại nhà Hán, Tô Vũ đi sứ bị Hung Nô bắt giam 18 năm. Trương Phi đánh Ba Thục bắt được tướng Nghiêm Nhan, Nhan không chịu đầu hàng nói: nước Thục chỉ có tướng đứt đầu chứ không có tướng đầu hàng. Vua Tấn Hoài Đế bị giặc đuổi Kê Thị Trung tức Kê Thiệu, lấy thân mình che chỡ vua, bị tên bắn máu tung đỏ cả áo long bào nhà vua. Đời Đường An Lộc Sơn làm phản, Trương Thư Dương tức Trương Tuần đánh giặc thua trận bị bắt, mắng giặc luôn miệng bị giặc bẽ gãy hai cái răng. Nhan Kiều Khanh tức Nhan Thường Sơn bị giặc bắt mắng chưỡi luôn miệng, giặc cắt lưỡi vẫn tiếp tục chửi mãi không thôi. Quảng Minh đời Hán được vua mời ra làm quan, không chịu, cứ ở mãi Liêu Đông ba mươi năm đội nón lá mặc áo vải bố. Khổng Minh dâng biểu xin vua xuất quân đánh Ngụy, lời lẫm liệt oai hùng. Tổ Địch qua sông đánh giặc bẻ gảy mái chèo thề không dẹp giặc xong không qua sông này. Đoàn Tú Thực giận Châu Xế chiếm ngôi vua cầm hốt, vật bằng ngọc các quan cầm cho oai nghi, đánh vào đầu Xế máu ra lai láng. Cái linh khí ấy tràn ngập muôn thuở, sáng rực cả trần ai, tỏ rõ cả trăng sao. Khí thiên anh hùng, xem nhẹ cái chết tựa lông hồng. nó làm cho khuôn đất nhờ đó mà vững vàng, cột chống trời nhờ đó mà còn. Tam cương được gìn giữ. Đạo nghĩa có được nguồn gốc. Xót vì ta gặp vận chẳng may, tướng sĩ hèn nhát, cho nên ta bị bắt làm tù nhân. Xe chỡ lên Bắc Kinh, dù ninh nấu ta trong vạc dầu sôi ta cũng coi như sương. Trong ngục tù không thấy ánh mặt trời, phòng giam tối đen lập lòe như lửa ma. (Văn Thiên Tường sống cùng bốn người lính) như ngựa quý sống cùng trâu bò. Phượng hoàng ăn thóc chung cùng đàn gà. Gió lạnh sương mù, trong không khí ẩm thấp, ta thường nghĩ sắp chết đến nơi, vậy mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lãng vãng chung quanh. Riết rồi ta cũng thấy cái nền ngục ẩm thấp hôi hám này là cảnh thiên đường lạc quốc. Vì thế ta vững được ý chí, ngắm mây trắng trôi trên đầu mà lòng buồn mênh mông như vòm trời vậy. Thánh hiền nay đã xa, tinh hoa vẫn còn đó. Trước hiên gió lộng mở sách đọc. Gương xưa vẫn soi sáng trước mặt... "• Bản dịch (của Hoàng Tạo):1- Trời đất có chính khíToả ra cho muôn loàiLà sông núi dưới đấtLà trăng sao trên trời5- Đầy rẫy cả vũ trụKhí hạo nhiên của ngườiGặp cảnh đời bình trịTriều thịnh vang lời vuiKhi cùng, tiết tháo rõ10- Sử xanh ghi đời đời.Ở Tề, sách Thái SửỞ Tấn, bút Đổng HồỞ Tần, chuỳ Bác LãngỞ Hán, cờ họ Tô15- Đầu Nghiêm thách trước giặcMáu Kê trên áo vuaRăng Trương công chửi địchLưỡi Kiều Khanh mắng thù.Hoặc là mũ Liêu Đông20- Vẻ băng tuyết phau phauHoặc là biểu “Ra quân”Lẫm liệt quỷ thần sầuHoặc qua sông gõ nhịpKhảng khái nuốt quân Hồ25- Hoặc giật hốt đánh giắcPhường tiếm nghịch toang đầu. Khi ấy tràn ngập tới Oai nghiêm muôn thuở cònKhi đã vượt nhật nguyệt30- Sống thác chuyện con con!Khuôn đất nhờ đó vữngCột trời nhờ đó cònBa giường được gìn giữĐạo nghĩa có gốc nguồn.35- Xót ta gặp vận áchTướng sĩ thực hèn nhátDải mũ buộc thân tùXe chở lên cực bắcNinh nấu cũng cam lòng40- Còn để ta mong mãiPhòng sâu ma lập loèViện xuân thành ngục tối!Ngựa giỏi nhốt cùng trâuChuồng gà, phượng nhặt thóc45- Thân này khi gió sươngĐành rãnh ngòi lăn lócThế mà hai năm quaTránh xa bao khí độcThương ôi! Chỗ lội lầm!50- Lại sống yên tối sớmPhải đâu khôn khéo gìÂm dương không dám phạmVằng vặc tấm cô trungNgẩng nhìn mây trắng nổi55- Buồn thay! Nỗi lòng taTrời xanh cao vòi vọi!Thánh hiền khuất lâu rồiKhuôn phép vẫn không mấtHiên gió mở sách coi60- Gương xưa soi trước mặt.


Bản dịch (Nguyễn Văn Thọ):[4]1. Anh hoa chính khí đất trờiKhoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng.Tràn mặt đất tuôn sông kết núi,Vút trời mây chói lói trăng sao5. Trần ai lẩn bóng anh hào,Muôn ngàn khí phách rạt rào tầng xanh.Thuở non nước thanh bình khắp chốn,Nét đan thanh chóng lộn bệ rồng.Sơn hà gặp buổi lao lung,10. Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.☸Tề Thái Sử mất còn mấy độ,Thẻ tre kia há sợ gươm ai.[1]Đổng Hồ múa bút mấy hồi,Làm cho Tấn tặc tơi bời ruột gan[2]15. Trương Lương xót nỗi Hàn khói lửa,Dùi đồng vung, nghiêng ngửa Tần vương.[3]Ngọn cờ Tô Vũ phong sương,Càng băng giá cảnh, càng hương sắc lòng.[4]Đầu Nghiêm tướng dường đồng, dường thép,[5]20. Máu Kê quân nhuốm hết long bào.[6]Trương Tuần răng cứng cát sao,Thành đồng đà nát, lòng đào khôn thay.[7]Lưỡi Thường Sơn nào hay lắt léo,[8]Mũ Quảng Minh che nẻo Liêu Đông.[9]25. Xuất sư biểu ấy hào hùng,Ngọc vàng rộn rã nát lòng thần minh.[10]Dòng nước Hiệt lênh đênh bỡ ngỡ,Thề cùng sông: «Tan rợ mới về !» [11]Hốt ngà có lúc cũng ghê,30. Cho đầu soán chúa ê chề tóc tang. [12]Linh khí ấy chứa chan muôn thuở,Rực trần ai, tở mở trăng sao.Khí thiêng đượm máu hùng hào,Phù sinh nhẹ tựa hồng mao sá gì.35. Giây buộc đất nó xe cho vững,Cột chống trời nó dựng cho cao.Cương thường đạo nghĩa trước sau,Mối giường then chốt quán thâu một mình.☸Ta lỡ bước điêu linh tù túng,40. Vì ba quân lấp lửng ươn hèn.Thân tù dạ lỏng khóa then,Một xe đầy ải, băng miền heo may.Đời luân lạc tỉnh say mấy độ,Vạc dầu sôi mà ngó như sương.45. Ngục tù khóa kín ánh dương,Phòng giam trời vắng tối dường than tro.Long câu giữa trâu bò len lỏi,Phượng hoàng kia phận gửi đàn gà.[13]Một mai gió lạnh sương mờ,50. Mấy hồi run rét, xác xơ thân tàn.Cậy tuế nguyệt thổi tan chướng khí,Nhờ dương quang đượm vẻ an khương.Nhớp nhơ là chốn tù trường,Mà ta khinh khoát coi dường Bồng Lai.55. Ta vốn chẳng có tài phép lớn,Nhưng trần ai khôn bận lòng ta.Lòng ta Chính Khí chói lòa,Âm dương điên đảo khôn mờ tấc son.☸Trời lồng lộng mây tuôn sóng bạc,60. Động lòng sầu man mác trời mây.Biển trời bát ngát chơi vơi,Con thuyền dĩ vãng, bóng người xa xưa.Người xưa quá, tinh hoa vẫn đó,Tinh hoa còn rạng rỡ tờ mây.Đạo xưa vầng sáng đâu đây,Linh lung vầng sáng tỏa đầy dung quang.

Chú giải (phần dịch của Nguyễn Văn Thọ):

[1] Thôi Tử là Tể tướng nước Tề giết vua, quan Thái sử cứ chép việc thật, không sự oai quyền.[2] Triệu Thuần là Tể tướng nhà Tần giết vua, Đổng Hồ cũng theo sự thật chép vào trong sử.[3] Trương Lương muốn báo thù cho vua nước Hàn, một mình mang dùi lén đánh vua Thủy Hoàng nhà Tần.[4] Tô Vũ đời nhà Hán đi sứ bên Hung Nô, không chịu đầu hàng, bị giam 19 năm.[5] Trương Phi đánh Ba Thục, bắt được Nghiêm Nhan. Nhan không chịu đầu hàng, nói rằng: ở xứ Thục có anh tướng quân đứt đầu chứ không có tướng quân đầu hàng.[6] Vua Hoài Đế nhà Tấn bị giặc đuổi, quan thị trung Kế Thiệu đưa mình che tên cho vua, bị bắn chết, rảy máu lên áo vua.[7] Đời nhà Đường, An Lộc Sơn làm phản, Trương Tuần khởi quân đánh giặc, nhưng thua trận và bị bắt. Trương Tuần mắng giặc luôn miệng, bị giặc bẻ hết hai cái răng.[8] Nhan Kiều Khanh bị giặc bắt, mắng chưởi luôn miệng, bị giặc cắt đứt lưỡi, nhưng vẫn cứ chưởi mãi không thôi.[9] Quảng Minh đời nhà Hán được vua mời ra làm quan nhưng ông không chịu ra, mà cứ ở mãi xứ Liêu Đông 30 năm, chỉ đội cái nón lá và mặc vải bố.[10] Khổng Minh dâng tờ biểu cho vua đi đánh nước Ngụy.[11] Tổ Địch dẫn quân đi đánh giặc. Lúc sang sông được rồi thì bẻ quách mái chèo mà rằng: Nếu không dẹp xong giặc thì không thể về mà sang sông này nữa.[12] Đoàn Tú Thực giận Châu Xế chiếm ngôi vua, bèn cầm cây đánh vào đầu Xế, máu ra lai láng.[13] Lúc bị giam chung trong ngục, ông Văn Thiên Tường cùng bốn lính tráng ăn chung nằm lộn với nhau.• Các chú giải này đều mượn nơi bản dịch Chính Khí Ca của Phan Bội Châu, in trong Khổng Học Đăng của cụ, quyển 2, tr. 792.